A. Hoạt động khởi độngCó thể dùng phương pháp nghiên cứu di truyền áp dụng trên động vật, thực vật...
Câu hỏi:
A. Hoạt động khởi động
Có thể dùng phương pháp nghiên cứu di truyền áp dụng trên động vật, thực vật để nghiên cứu di truyền học người được không? Tại sao? Có phương pháp nào đặc trưng riêng cho nghiên cứu di truyền ở người?
Tại sao những đứa trẻ sinh đôi cùng trứng giống hệt nhau, cùng mắc các bệnh di truyền như nhau, cùng giới tính? Những đứa trẻ sinh đôi khác trứng thường khác nhau, có thể khác giới tính?
Câu trả lời:
Người trả lời: GV. Đỗ Thị Giang
Cách làm:
Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết từ câu hỏi: Có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền áp dụng trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người không?
Bước 2: Liệt kê các lý do vì sao không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người được. (Ví dụ: đạo đức, giáo dục, pháp luật, xã hội, thời gian thế hệ dài)
Bước 3: Tìm hiểu và liệt kê các phương pháp nghiên cứu di truyền đặc trưng riêng cho nghiên cứu di truyền ở người. (Ví dụ: phương pháp nghiên cứu phả hệ, nghiên cứu trẻ đồng sinh)
Bước 4: Phân tích nguyên nhân khi các đứa trẻ sinh đôi cùng trứng giống hệt nhau, mắc các bệnh di truyền như nhau, giới tính giống nhau. Và tại sao đứa trẻ sinh đôi khác trứng lại khác nhau, có thể khác giới tính.
Câu trả lời:
Không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người được. Điều này bởi con người có những yếu tố đặc biệt như đạo đức, giáo dục, pháp luật và xã hội không cho phép lai tạo trên người. Ngoài ra, con người sinh sản ít và thời gian thế hệ dài làm cho việc nghiên cứu di truyền trên người trở nên khó khăn hơn.
Các phương pháp nghiên cứu di truyền đặc trưng riêng cho nghiên cứu ở người bao gồm phương pháp nghiên cứu phả hệ và nghiên cứu trẻ đồng sinh. Những phương pháp này được thiết kế đặc biệt để nghiên cứu các yếu tố di truyền ở con người một cách hiệu quả và chính xác.
Đối với việc sinh đôi cùng trứng giống hệt nhau, mắc các bệnh di truyền như nhau và có giới tính giống nhau, bản chất của vấn đề này là do chúng xuất phát từ cùng một trứng và cùng một tinh trùng tạo thành 1 hợp tử, nên chúng có gen giống nhau. Còn đối với việc sinh đôi khác trứng lại khác nhau, có thể khác giới tính là do các trứng khác nhau thụ tinh tạo ra các hợp tử khác nhau, do đó chúng thường khác biệt về gen và có thể khác biệt về giới tính.
Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết từ câu hỏi: Có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền áp dụng trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người không?
Bước 2: Liệt kê các lý do vì sao không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người được. (Ví dụ: đạo đức, giáo dục, pháp luật, xã hội, thời gian thế hệ dài)
Bước 3: Tìm hiểu và liệt kê các phương pháp nghiên cứu di truyền đặc trưng riêng cho nghiên cứu di truyền ở người. (Ví dụ: phương pháp nghiên cứu phả hệ, nghiên cứu trẻ đồng sinh)
Bước 4: Phân tích nguyên nhân khi các đứa trẻ sinh đôi cùng trứng giống hệt nhau, mắc các bệnh di truyền như nhau, giới tính giống nhau. Và tại sao đứa trẻ sinh đôi khác trứng lại khác nhau, có thể khác giới tính.
Câu trả lời:
Không thể sử dụng phương pháp nghiên cứu di truyền trên động vật và thực vật để nghiên cứu di truyền học người được. Điều này bởi con người có những yếu tố đặc biệt như đạo đức, giáo dục, pháp luật và xã hội không cho phép lai tạo trên người. Ngoài ra, con người sinh sản ít và thời gian thế hệ dài làm cho việc nghiên cứu di truyền trên người trở nên khó khăn hơn.
Các phương pháp nghiên cứu di truyền đặc trưng riêng cho nghiên cứu ở người bao gồm phương pháp nghiên cứu phả hệ và nghiên cứu trẻ đồng sinh. Những phương pháp này được thiết kế đặc biệt để nghiên cứu các yếu tố di truyền ở con người một cách hiệu quả và chính xác.
Đối với việc sinh đôi cùng trứng giống hệt nhau, mắc các bệnh di truyền như nhau và có giới tính giống nhau, bản chất của vấn đề này là do chúng xuất phát từ cùng một trứng và cùng một tinh trùng tạo thành 1 hợp tử, nên chúng có gen giống nhau. Còn đối với việc sinh đôi khác trứng lại khác nhau, có thể khác giới tính là do các trứng khác nhau thụ tinh tạo ra các hợp tử khác nhau, do đó chúng thường khác biệt về gen và có thể khác biệt về giới tính.
Câu hỏi liên quan:
- B. Hoạt động hình thành kiến thứcI. Phương pháp nghiên cứu di truyền người1. Lập sơ đồ phả hệLàm...
- 2. Phân tích sự di truyền người qua phả hệQuan sát hình 29.3 và cho biết đặc điểm di truyền tính...
- 3. Nghiên cứu di truyền người qua trẻ đồng sinhQuan sát hình 29.5, mô tả các giai đoạn hình thành...
- II. Bệnh và tật di truyền ở người1. Bệnh di truyền ở ngườiThế nào là bệnh di truyền người? Nguyên...
- 3. Tật di truyền ở ngườiThế nào là tật di truyền ở người? Kể tên và hậu quả một số tật di truyền ở...
- 3. Các biện pháp hạn chế phát sinh tật, bệnh di truyềnEm đã biết gì về một số biện pháp nhằm hạn...
- C. Hoạt động luyện tập1. Em hãy quan sát hình 29.11, trả lời câu hỏi:- Bệnh do gen trội hay gen lặn...
- 2. Bệnh máu khó đông do một gen quy định. Người vợ (1) không mắc bệnh lấy chồng (2) không mắc bệnh...
- D. Hoạt động vận dụngNghiên cứu sự di truyền của một số bệnh, tật di truyền ở người qua điều tra...
- E. Hoạt động tìm tòi mở rộngTìm hiều thông tin về phả hệ của các dòng họ nổi tiếng thế giới.Sưu tầm...
Những đứa trẻ sinh đôi cùng trứng giống nhau có thể mắc các bệnh di truyền và giới tính giống nhau do họ có cùng một bộ gen. Trong khi đó, những đứa trẻ sinh đôi khác trứng được hình thành từ những lối sống và môi trường intrauterine khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong di truyền và kết quả cuối cùng.
Nghiên cứu di truyền ở người thường sử dụng phương pháp tiếp cận tự do, nơi mà các yếu tố di truyền được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình sinh sản. Các phương pháp nghiên cứu di truyền ở người thường điều chỉnh bằng cách giám sát các mẫu máu hoặc thậm chí ADN từ các cấu trúc nhỏ như tế bào.
Có thể dùng phương pháp nghiên cứu di truyền áp dụng trên động vật, thực vật để nghiên cứu di truyền học người. Tuy nhiên, việc này gặp nhiều hạn chế vì không thể thực hiện các thí nghiệm trên con người một cách tổng quát và đầy đủ như trên động vật, cũng như vấn đề đạo đức và pháp lý phải được cân nhắc.